Đã 81 năm trôi qua, nhưng sự kiện Nam kỳ khởi nghĩa vẫn mãi lưu dấu trong lòng bao thế hệ. Đó là lần đầu tiên cờ đỏ sao vàng tung bay trên các trụ sở hành chính, cột nhà dây thép ở Nam kỳ. Nam kỳ khởi nghĩa là sự kiện đánh dấu bước trưởng thành của phong trào cách mạng ở Nam bộ, góp phần hun đúc tinh thần yêu nước của nhân dân.
Vào đêm 22 rạng
23/11/1940, tất cả 20 tỉnh và thành phố Sài Gòn - Chợ Lớn đều có kế hoạch khởi
nghĩa, trong đó có 56/75 quận, 50% số làng. Dù cuộc khởi nghĩa diễn ra không
hoàn toàn như kế hoạch, nhưng một số nơi giành được quyền làm chủ, gây cho địch
một số thiệt hại, tạo được tiếng vang lớn trong dư luận quần chúng nhân dân.
Lần đầu tiên, cờ đỏ
sao vàng tiến bước cùng với các đoàn quân khởi nghĩa và tung bay trên nóc các
trụ sở của chính quyền thực dân, tề xã bị quân ta chiếm lấy. Khởi nghĩa Nam kỳ
là bài học quý báu về chỉ đạo khởi nghĩa vũ trang, chuẩn bị cho Đảng những kinh
nghiệm để giành thắng lợi trong khởi nghĩa tháng 8/1945. Trong đó, có bài học
về xây dựng các phương án để có thể ứng phó được nhiều tình huống khác nhau.
Một trong những lực lượng có thể coi là chủ lực của khởi nghĩa Nam kỳ là binh lính người Việt trong quân đội Pháp. Thời điểm đó, Xứ ủy Nam Kỳ đã xem trọng công tác binh vận hơn một số công tác khác, như công vận, nông vận…
Những ngày đầu khởi nghĩa ở Bến Tre năm 1940. Ảnh: Tư Liệu
“Xứ ủy Nam Kỳ xác định
binh vận là một khâu quan trọng trong chuẩn bị lực lượng khởi nghĩa. Binh sĩ
người Việt trong quân đội Pháp là con em nhân dân lao động, có tinh thần yêu
nước và ý thức dân tộc, có thể trở thành một lực lượng khởi nghĩa nếu được giác
ngộ. Xứ ủy thành lập hai ủy ban chuyên môn binh vận. Những nỗ lực trong công
tác binh vận làm cho số lượng binh sĩ có cảm tình với cách mạng ngày càng
nhiều. Phát hiện thấy những điều khác lạ trong anh em binh sĩ người Việt, ngày
16/10/1940, Thống đốc Nam kỳ Veber gửi thông tri mật nhắc nhở các tỉnh phải kiểm
tra an ninh, chú ý đề phòng việc lấy cắp vũ khí, đạn dược, thuốc nổ. Ngày
11/11/1940, Veber lại gửi báo cáo khẩn lên cấp trên, rằng trong tài liệu mà y
vừa bắt được ở Vĩnh Long có nội dung phân tích những thời cơ thuận lợi phát
động cuộc nổi dậy của cộng sản. Tài liệu cũng nhắc tới những tổ chức cộng sản
sẵn có trong binh lính phải nhằm vào các kho vũ khí, đạn dược và chuẩn bị đánh
chiếm khi được lệnh. Đến tháng 11-1940, nhiều đơn vị binh lính người Việt ở Nam
kỳ đã ngả về phía cách mạng, sẵn sàng tham gia khởi nghĩa (…). Tuy nhiên, phát
hiện thấy những dấu hiệu bất thường, thực dân Pháp đã kịp thời thu vũ khí và
cấm trại binh sĩ người Việt. Vì thế, anh em binh lính không có cơ hội tham gia
khởi nghĩa”(1).
Những điều này cho
thấy, các thông tin về khởi nghĩa đã lộ ra vài tháng trước khi khởi nghĩa nổ ra
và ngày càng thể hiện rõ nét, khiến thực dân Pháp có thời gian và điều kiện ứng
phó.
Bên cạnh đó, từng
phương án cho hoạt động khởi nghĩa như hiệu lệnh, cách thức tiến công, cách giữ
các vị trí đã chiếm đóng, cách rút lui… cũng chưa được tính toán kỹ lưỡng.
Chẳng hạn, tại Sài Gòn, theo kế hoạch, các lực lượng khởi nghĩa từ ngoại ô tiến
vào trong đêm 22 để đúng 0 giờ ngày 23 thì chờ hiệu lệnh cùng với quân cách
mạng bên trong nổi dậy chiếm các cơ quan trọng yếu, phá Khám Lớn...
Hiệu lệnh là đèn điện
tắt, súng nổ. Nhưng quá giờ không có hiệu lệnh nên các lực lượng đã vào nội
thành rồi sau đó nhanh chóng rút lui ra khỏi thành phố, lực lượng đã phục ở
ngoài chờ đến gần sáng không thấy gì nên tự giải tán. Các đạo quân khởi nghĩa ở
các địa phương lân cận theo quy ước nếu không thấy chuyến xe lửa sớm thì sẽ
nhất tề xông lên nhưng đến gần sáng, xe lửa vẫn chạy thì biết Sài Gòn không
khởi nghĩa được hay khởi nghĩa không thành công. Dù vậy, một số lực lượng không
thể dừng lại mà cũng không có phương án tác chiến hữu hiệu, dẫn đến nhanh chóng
bị đàn áp.
Hay Xứ ủy chủ trương
chọn Sài Gòn - Chợ Lớn làm nơi phát lệnh và đóng vai trò quyết định trong cuộc
tổng khởi nghĩa. Thực tế, cuộc khởi nghĩa chỉ nổ ra mạnh ở vùng nông thôn, còn
khởi nghĩa ở đô thị này không diễn ra được do bị địch ngăn chặn triệt để.
Từ đó có thể thấy được
“bài học về tính khoa học của kế hoạch lãnh đạo khi tiến công và thoái thủ; dự
trù các phương án thắng - thua và khả năng giải quyết nếu khởi nghĩa thất bại;
kế hoạch rút lui bảo toàn cơ sở và lực lượng”; đồng thời “bài học về xây dựng
đội quân chủ lực, xác định rõ các lực lượng phối hợp của cuộc khởi nghĩa và
đánh giá đúng vai trò của các lực lượng. Lực lượng vũ trang của binh lính là
quan trọng nhưng quyết định vẫn là quần chúng công nông”(2). Bài học này đã
được Đảng ta nghiêm túc rút kinh nghiệm và đã thành công rực rỡ trong Cách mạng
Tháng Tám.
Ngay từ khi được tin
Nam kỳ khởi nghĩa, ngày 24/11/1940, Ban Thường vụ Trung ương Đảng đã ra thông
báo khẩn cấp, chỉ thị cho các địa phương “chia lửa với Nam kỳ”, trong đó nêu:
“Anh em (binh lính) hãy dùng ngay khí giới của giặc bắn vào đầu giặc Pháp. Hãy
nổi lên hưởng ứng đồng bào cách mạng Nam kỳ! Anh em có khí giới trong tay, chỉ
có anh em nổi lên mới làm cho giặc Pháp, giặc Nhật hoảng vía, chỉ có anh em mới
có thể làm cho khí giới quân thù biến thành khí giới của đồng bào cách
mạng”(3).
Hưởng ứng lời kêu gọi
của Đảng, quần chúng cách mạng ở nhiều nơi đã tham gia rải truyền đơn, bãi
khóa, bãi thị đến việc phát động du kích, nếu có điều kiện phá đường, cầu cống
ngăn quân thù đàn áp…, nhưng do sự phối hợp, hiệp đồng có mức độ nên hiệu quả
không cao.
Dẫu vậy, cuộc khởi
nghĩa vẫn nổ ra và tạo được tiếng vang rất lớn trong toàn Nam kỳ lúc bấy giờ,
góp phần hun đúc tinh thần yêu nước trong nhân dân, tạo nên những tiền đề quan
trọng để có thể thực hiện thành công cuộc Cách mạng Tháng Tám 5 năm sau đó.
-----------------------------
(1) PGS.TS. Vũ Quang Hiển, Bài học về xây dựng Đảng từ cuộc Khởi nghĩa Nam kỳ,
Tạp chí Xây dựng Đảng, số 11/2015.
(2) Ban Tuyên giáo
Trung ương, Đề cương tuyên truyền kỷ niệm 80 năm Khởi nghĩa Nam kỳ.
(3) Văn kiện quân sự
của Đảng, 1930-1945, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 1969, tr.166.
Trúc Giang
Báo Sài Gòn giải
phóng