Kiều Thanh Quế
(1914 - 1948), còn có các bút danh Mộc Khuê, Quế Lang, Tô Kiều Phương, Nguyễn
Văn Hai, là một trong số những nhà văn, dịch giả, nhà nghiên cứu, phê bình có uy tín của miền Nam và cũng là người có công đầu xây dựng nền văn học hiện đại Việt Nam
giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX. Quê ông ở
làng Hắc Lăng, xã Tam Phước, huyện Long Ðiền, tỉnh Bà Rịa - Vũng Tàu...
Kiều Thanh Quế hy sinh giữa lúc
tuổi đời còn rất trẻ và bút lực đang dồi dào, nhưng cũng đã kịp để lại nhiều văn phẩm có giá trị. Các
tác phẩm của ông hầu hết được công bố trong khoảng thời gian từ năm 1940 đến
1945, thời điểm phê bình văn học phát triển mạnh mẽ. Ông để lại cho đời các tác
phẩm: Hai mươi tuổi (Tiểu thuyết, 1940), Ðứa con của tội ác (Truyện ngắn), Ba
mươi năm văn học (Nghiên cứu, phê bình, 1941), Phê bình văn học (1942), Cuộc
tiến hóa văn học Việt Nam (1943), Ðàn bà và nhà văn (1943), Học thuyết Frued (Khảo
luận, 1943), Thi hào Tagore (Khảo luận, 1943), Một ngày của Tolstoi (Khảo
luận), Vũ Trọng Phụng và chủ nghĩa tả thiệt xã hội (1945)... Bước đầu, một số
tác phẩm đã được tuyển chọn và in trong cuốn khảo cứu, phê bình Cuộc tiến hóa
văn học Việt Nam (Nguyễn Hữu Sơn - Phan Mạnh Hùng sưu tập, giới thiệu, Nhà xuất
bản Thanh niên, 2009).
Cho đến nay, các đóng góp của
Kiều Thanh Quế cho văn học sử nước nhà vẫn chưa được quan tâm đúng mức và đánh
giá có hệ thống; ngay cả "hồ sơ hoạt động cách mạng" và những oan
khuất của ông cũng chưa phải đã được đông đảo độc giả biết đến.
Với lịch sử nghiên cứu, phê bình văn học ở Việt Nam,
Thiếu Sơn là người có tác phẩm phê bình xuất bản sớm nhất (Phê bình và cảo
luận, 1933), nhưng về sức viết và công việc cập nhật đời sống văn học thì Kiều
Thanh Quế có phần vượt trội hơn nhiều. Vì không phải ai cũng tỏ ra bao quát được một cách hệ
thống nhiều lĩnh vực và có một lối nghiên cứu, phê bình chuyên sâu như Kiều
Thanh Quế. Ba mươi năm văn học là cuốn sách "tính sổ văn học" gọn
gàng mà chắc chắn của ông...
Từng làm công việc "tính sổ
văn học" trên Ðông Dương tuần báo từ những năm 1940; gần với cách làm phê
bình của ông với quy mô đáng kể chỉ có Trương Tửu, Lê Thanh. Trong những năm
đầu thế kỷ XX, báo chí thiên về nghiên cứu, phê bình, có không ít cuốn sách là
sự góp nhặt, tập hợp các bài báo đã đăng (Phê bình và cảo luận, Chương dân thi
thoại, Thi sĩ Tản Ðà...); và số đông người làm nghiên cứu, phê bình gắn bó với
báo chí, với xuất bản, chẳng hạn Thiếu Sơn viết trên Phụ nữ tân văn, Thái Phỉ
trên Ngọ báo và Tân văn, Hoài Thanh trên Tràng An, Lê Tràng Kiều trên Hà Nội
báo và Tiểu thuyết thứ Năm...
Kiều Thanh Quế viết trên Mai và
Tri tân. Ngay từ những bước đi đầu tiên, nghiên cứu, phê bình văn học hiện đại
ở Việt Nam đã gắn bó với diễn đàn báo chí; gần như phải gắn liền với báo chí và
hoạt động xuất bản văn học thì nghiên cứu, phê bình mới phát triển nhanh, đồng
thời còn thể hiện rõ tính thời sự cùng vai trò của nó đối với sáng tác và công
chúng văn học rộng rãi...
Cuốn Phê bình văn học của Kiều
Thanh Quế mặc dù được Nhà xuất bản Tân Việt in năm 1942, nhưng lại gồm những bài viết trong
khoảng thời gian từ năm 1933 đến 1936. Trong tác phẩm này, Kiều Thanh Quế đặt
ra nhiều vấn đề quan trọng của văn học, nghệ thuật nói chung và phê bình nói riêng
như tiêu chuẩn đánh giá, mỹ cảm và văn phong của người viết; tính ẩn dụ, tính
hàm súc và tính chân thật của văn học, vai trò của kết cấu và lời văn trong
việc sáng tạo (Chủ nghĩa nghệ thuật, Cái lối văn chương rườm rà mà trống rỗng
đang nhiễu hại xứ này)...
Theo
quan điểm, văn
chương phải "cải tạo xã hội", gắn với tinh thần hiện thực của dân
tộc, nhà văn cần có "lý tưởng xã hội", ông phê phán gay gắt những lối
văn chỉ chăm chú vào hình thức, thứ văn chạy theo mode "sáo mòn và trống
rỗng", thứ văn vay mượn lệ thuộc quá nhiều vào các yếu tố ngoại lai (Nhân
tuần và văn chương, Bàn về lối đoản thiên tiểu thuyết). Kiều Thanh Quế nhấn
mạnh, "Tìm cái đẹp trong không gian là nghệ thuật", "Tìm cái đẹp
trong nghệ thuật là phê bình"; "Nghệ thuật là phê bình không gian,
những cái trước mắt ta và ngoài tai ta"... Do chọn chỗ đứng "vị nhân
sinh", nên khi bàn về quan hệ giữa phê bình và văn hóa, phê bình và văn
học, Kiều Thanh Quế đã đề cao vai trò truyền bá văn hóa của nghiên cứu, phê
bình. Ðối với ông, sứ mạng của nhà nghiên cứu, phê bình là tuyên truyền những
cái tận thiện, tận mỹ, có nhiệm vụ làm sáng tỏ các vấn đề quan hệ với nhân sinh
tạo thành một trào lưu tư tưởng tự do, mới mẻ.
Liên quan mật thiết với bộ phận
truyền bá văn hóa, Kiều Thanh Quế cho rằng: Nhà văn nào cũng phải có "cặp mắt của Boileau", anh ta
phải nghiêm khắc với chính mình, phải có tâm hồn phê phán, phục thiện trước
những tư tưởng mới mẻ, hợp thời. Trong những bài viết, một mặt tác giả Phê bình
văn học bộc lộ sự chịu ảnh hưởng của Brunnetière, Sainte Beuve, Haine, Taine;
mặt khác cho thấy ông tán đồng với Hải Triều trong phê bình Kép Tư Bền của
Nguyễn Công Hoan, khen cách phê bình của Phan Văn Hùm trong phê bình Thời gian
của Xuân Diệu, đánh giá cao Vũ Trọng Phụng ở Giông tố. Song, cũng tương tự quan
niệm của Hoài Thanh, ở Kiều Thanh Quế, kẻ làm nghiên cứu, phê bình luôn cần cảm
xúc - sự mẫn cảm, nghiên cứu, phê bình "là một phát minh và một sáng tạo
vĩnh viễn", "phải nói cho đúng đã đành, mà lại cần phải nói cho hay
nữa"...
Kiều Thanh Quế không cực đoan đề
cao phái vị nhân sinh để hạ thấp phái vị nghệ thuật, hay ngược lại. Ông sớm
nhìn ra và chọn lọc lấy cái hạt nhân hợp lý trong mỗi quan điểm vị nhân sinh và
vị nghệ thuật; lên án lối phê bình quảng cáo, chỉ biết chỉ trích hoặc đố kỵ:
"Nhà phê bình chân chính" không làm việc quảng cáo như bọn con buôn,
trả thù như tiểu nhân, mà cần quan tâm giới thiệu những nhân tài không may bị
bỏ quên hoặc chớm nở, cộng tác với các nhà văn hữu danh làm cho nền văn học
nước nhà có những áng văn hay và dọn đường "tiếp đón những bậc siêu
xuất"...
Kiều Thanh Quế còn đề nghị vận
dụng đa dạng, linh hoạt các phương pháp phê bình. Ít ai có được nhận thức đúng
đắn về những giới hạn và chỗ sở dụng của mỗi phương pháp phê bình như ông ở
thời điểm đó. Qua những công trình của ông, chúng ta thấy lối phê bình hiện
đại, giới thiệu nhiều phương pháp phê bình, đặt nền móng cho việc viết lịch sử nghiên
cứu, phê bình, sớm có những đánh giá về đội ngũ nghiên cứu, phê bình, phác họa
chân dung các nhà nghiên cứu, phê bình trong vòng gần hai mươi năm.
Cuộc tiến hóa văn học Việt Nam
là công trình văn học sử khảo sát một cách hệ thống nền văn học chữ Hán, chữ
Nôm và chữ Quốc ngữ -
một cách làm mà người ta mới thấy rõ rệt ở Dương Quảng Hàm - có thể xem đây là
một trong những cuốn văn học so sánh, đối chiếu xuất hiện sớm ở Việt Nam. Tác
giả tiến hành so sánh, rút ra những đặc tính của Hoa văn, Pháp văn, chỉ ra sự
khác biệt trong quan niệm văn chương học thuật của phương Tây và phương Ðông. “Ðàn
bà và nhà văn” là cuốn sách bàn về giới trong văn học xét theo từng cấu trúc
văn hóa xã hội cụ thể, giúp cho độc giả thấy được địa vị của phụ nữ trong văn
chương Ðông Tây, ảnh hưởng của phụ nữ đối với sáng tác và cách ứng xử của nhà
văn đối với phụ nữ từ quan điểm của phụ quyền. Cho dù “Ðàn bà và nhà văn” chưa
có tinh thần đấu tranh cho quyền bình đẳng của nữ giới trong văn học, chưa chủ
trương trình bày cặn kẽ văn học sử nữ giới, nhưng nó đã góp phần đặt ra vấn đề
thiết thực mà những người nghiên cứu văn học sử và bộ môn tâm lý học nghệ thuật
sau này cần quan tâm lý giải thấu đáo hơn.
Trước
thềm Hội thảo về thân thế, sự nghiệp văn học của Nhà văn, Chiến sĩ Kiều Thanh
Quế do Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Bà Rịa – Vũng Tàu tổ chức, trân trọng giới thiệu
một số tác phẩm của ông với độc giả Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu.
Huỳnh Tới
Thư viện tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu